KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN, “VỢ CẢ” CÓ QUYỀN LỢI TỪ ĐẤT CỦA NHÀ CHỒNG?
Anh A. sống chung với vợ là chị V. gần 20 năm, sinh con ở quê nhưng chưa đăng ký kết hôn, sau đó lên thành phố cưới thêm vợ là chị T. và có đăng ký kết hôn. Mỗi năm Anh A. về quê thăm một lần. Chị V. ở quê là người chăm lo, phụng dưỡng mọi chuyện lớn nhỏ của nhà chồng cho đến khi mất khi bố mẹ anh A. qua đời. Theo đó, mẹ anh A. có đứng tên một khu đất, sau giải tỏa, được bồi thường 2 lô đất. Sau đó mẹ anh A. sang tên chia đều cho chú anh A. và anh A. mỗi người một lô, vợ cả không biết. Do có khó khăn trong làm ăn, nên anh A. dự định bán đất để trả nợ.
Vậy vợ cả và vợ chính thức có quyền lợi gì đối với mảnh đất này?
Có ý kiến cho rằng dù đất đứng tên ai, người đó hưởng. Tuy nhiên, “xét về mặt tình nghĩa” thì người “vợ cả” có công lao, ân tình nên được hưởng một phần tài sản. Dưới đây căn cứ theo quy định của luật hôn nhân gia đình có thể xét hai trường hợp sau.
Thứ nhất về phần của người vợ chính thức: Do anh A. lấy vợ ở thành phố hai người có làm thủ tục đăng ký kết hôn và có giấy đăng ký kết hôn đúng với pháp luật. Chế độ tài sản của vợ chồng lúc này là sở hữu chung theo đó tại khoản 1 điều 33 Luật hôn nhân gia đình quy định các tài sản do vợ, chồng tạo ra tính từ thời điểm các bên đăng ký kết hôn đều là tài sản chung.
Song, xuất phát từ quy định khoản 1 điều 33 Luật hôn nhân gia đình “trừ trường hợp được thừa kế riêng, được tặng cho riêng” thì đối với mảnh đất của mẹ anh A. để lại và sang tên riêng cho anh A. theo hình thức cho, tặng, nên dù trong thời kỳ hôn nhân, lô đất này vẫn là tài sản riêng của anh A. .Vậy nên, đối với vợ ở thành phố sẽ không có quyền gì đối với mảnh đất này, thay vào đó nếu vợ chính thức chứng minh mình có đóng góp vào mảnh đất đó cùng với chồng thì sẽ được đền bù “khoản đóng góp”.
Thứ hai về phần của người “vợ cả” nhưng không đăng ký kết hôn: Dù chỉ là sống chung với nhau như vợ chồng và không có đăng ký kết hôn theo quy định như người vợ hợp pháp cho nên sẽ không có phát sinh quyền và nghĩa vụ tài sản trong thời kỳ hôn nhân (quy định tại khoản 1 điều 14 Luật hôn nhân gia đình). Tuy nhiên, pháp luật quy định việc phần tài sản, phần góp sức của người “vợ cả” vẫn được xem xét để đem lại công bằng cho người đóng góp.
Với việc chị V. phụng dưỡng, chăm sóc cho gia đình chồng thì xét về mặt đạo đức anh A. cũng cân nhắc và thỏa thuận mức tiền thỏa đáng với công lao của người “vợ cả” là chị V./..
Nếu chị V. chính thức có yêu cầu có quyền đối với mảnh đất này và các bên xảy ra tranh chấp với nhau, thì Tòa án sẽ dựa vào tài sản mà bà “vợ cả” tạo lập, gầy dựng nên, theo đó buộc anh A. thanh toán một khoản tiền khi bà V. cải tạo, lấp đất một cách xứng đáng với công sức đã bỏ ra cùng như các chi phí để dựng lên các hạ tầng để phát triển cây lâu năm, hoa màu do vợ “cả” chị V. trồng sẵn.
Vậy nên, khi anh A. không bàn bạc, thống nhất với “vợ cả” về những phần được hưởng thì anh A. sẽ gặp khó khăn trong lúc làm thủ tục chuyển nhượng đất cho người khác vì tài sản chuyển nhượng đang có liên quan đến người thứ ba (tài sản đang có tranh chấp).
Do anh A. cũng ít chăm lo cho mẹ của mình trong khi việc này là do chị V. thực hiện tất tần tật chăm sóc nên cũng được hưởng một phần trong đó dù đó là hành động mang tính tự nguyện (bất kể có cần sự đồng ý của bà nội và anh A. hay không). Xét về mặt đạo đức thì anh A. cần phải bàn bạc kĩ càng và quan tâm đến lợi ích cho người “vợ cả” và giải quyết một cách thỏa đáng, thấu tình, hợp lý.
Trên đây là giải đáp của GNha về vấn đề “Vợ cả có quyền lợi gì đối với đất của nhà chồng”. Nếu vẫn còn thắc mắc hoặc cần được tư vấn nhanh chóng về pháp luật hôn nhân gia đình, hãy liên hệ đến số hotline 1900588857 để biết thêm chi tiết.